Dân tộc Mạ chủ yếu theo chế độ phụ hệ. Họ tập trung sinh sống chủ yếu ở Tây Nguyên và chủ yếu là ở Lâm Đồng. Văn hóa dân tộc Mạ có từ lâu đời với nhiều truyền thuyết, sử thi khác nhau. Nét đặc trưng văn hóa thể hiện rõ nhất là qua bộ nhạc cụ truyền thống, phong tục, trang phục và nhà dài truyền thống.
Giới thiệu chung về dân tộc Mạ
Người Mạ không có bộ chữ viết riêng nhưng văn hóa được truyền miệng qua từng thế hệ nên luôn có những nét văn hóa đặc thù riêng. Hãy cùng Miền Tây Có Gì điểm qua những đặc điểm chính của dân tộc Mạ nhé!
Tên gọi
Tên tự: Mạ.
Tên gọi khác: Châu Mạ, Chê Mạ, Chô Mạ.
Dân số dân tộc Mạ
Dân số: 41.405 người, đứng thứ 29/54 dân tộc Việt Nam. Các tỉnh đông người Mạ nhất là:
- Lâm Đồng: 31.869 người (Chiếm 77% người Mạ tại Việt Nam).
- Đắk Nông: 6.456 người.
- Đồng Nai: 2.436 người.
Ngôn ngữ dân tộc Mạ
Người Mạ không có chữ viết nhưng có tiếng nói riêng. Tiếng Mạ thuộc ngữ chi Ba Na của ngữ tộc Môn Khmer, ngữ hệ Nam Á.
Kinh tế
Kinh tế chủ yếu là làm nương rẫy. Nơi đây đa số là đa canh trồng lúa xen lẫn với bắp, bầu, bí, thuốc lá, bông vải,… Họ làm rẫy chủ yếu do trâu cày. Ngoài ra còn sử dụng công cụ rĩu, xà gạc, dao, liềm, gùi,…
Ngoài ra nghề đánh cá cũng khá phổ biến. Nghề trồng bông dệt vải cũng được xem là ngành nghề nổi tiếng của người Mạ. Họ cũng làm nghề rèn khá tốt. Các nông cụ đều do người Mạ tự rèn.
Đặc trưng nhà dài của người Mạ
Nhà Dài của người Mạ được thiết kế theo kiểu nhà sàn thấp, dài thường từ 15 mét đến hơn 100 mét tùy theo gia đình nhiều người hay ít người. Đó là ngôi nhà lớn của nhiều thế hệ sống chung như một đại gia đình.
Nhà dài được xây dựng bằng vật liệu gỗ, tre, nứa lợp mái tranh. Nhà có kết cấu cột kèo bằng gỗ tốt, các đà ngang, đòn dông luôn được đẽo bằng tay. Nhà được thưng vách và lót sàn bằng các phên nứa đập nát, mái lợp cỏ tranh rất dày. Đỉnh mái cách sàn nhà từ 4 mét đến 5 mét.
Nhà dài chia làm hai phần, nửa đằng cửa chính gọi là “Gah” là nơi tiếp khách, sinh hoạt chung của cả nhà và nửa còn lại gọi là “Ôk” là bếp đặt chỗ nấu ăn chung và là nơi ở của các đôi vợ chồng, được chia đôi theo chiều dọc, phần về bên trái được coi là “trên” chia thành nhiều gian nhỏ. Phần về bên phải là hàng lang để đi lại, về phía cuối là nơi đặt bếp lửa…
Sân sàn ở phía cửa chính được gọi là sân khách. Cầu thang được đẽo bằng tay và thường trang trí bằng hình hai nhũ hoa và hình trăng khuyết. Các cột, kèo thường đẽo gọt, trang trí bằng hình ảnh các con vật như voi, ba ba, kì đà…
Văn hóa dân tộc Mạ
Dân tộc mạ là những người dân bản địa sống ở Tây Nguyên từ lâu đời. Văn hóa của họ được hình thành và mô tả qua các sử thi, truyền thuyết rất sống động.
Trang phục dân tộc Mạ
Phụ nữ mặc váy quấn dài quá bắp chân, áo chui đầu vừa sát thân dài tới thắt lưng, kín tà. Nam đóng khố, áo hở tà, vạt sau dài hơn vạt trước. Mùa lạnh, người già thường khoác thêm tấm mền. Người Mạ có tập quán cà răng, căng tai, phụ nữ thích đeo chuỗi hạt cườm nhiều màu sắc. Thanh niên mang nhiều vòng đồng ở cổ tay có ngấn khắc chìm như là kí hiệu của các lễ hiến sinh tế thần linh, cầu mát cho chính mình.
Quan hệ trong làng
Mỗi làng sẽ có một chủ làng đứng đầu. Chủ làng sẽ lo nhiệm vụ cúng tế, thực hiện các nghi lễ truyền thống.
Quan hệ gia đình được coi trọng ở dân tộc Mạ. Một gia đình lớn sẽ sinh sống cùng nhau với một người chủ gia đình (thường là người lớn tuổi nhất). Người chủ gia đình sẽ có quyền điều hành mọi hoạt động và phân công công việc trong gia đình.
Cưới hỏi
Quyền chủ động hôn nhân do bên nhà trai, nhưng sau lễ cưới nếu nhà trai nộp đủ sính lễ thì đôi vợ chồng chỉ ở lại nhà gái 8 ngày, còn không, chàng trai phải ở rể đến khi nộp đủ mới được đưa vợ về ở nhà mình.
Sinh đẻ
Khi sinh con trai, nhau của đứa trẻ đựng trong vỏ trái bầu khô chôn trước nhà, nếu sinh con gái nhau chôn sau nhà. Sang ngày thứ 8, người mẹ bồng con ra sân tắm nắng ; nếu con trai phải mang theo xà gạt, nỏ, dao vót nan ; nếu con gái mang theo gùi, rìu chẻ củi, túi đựng cơm và dụng cụ dệt vải. Đứa bé mới ra đời thường đặt tên theo ông bà đã mất. Con trai đặt tên theo vần của chú, bác, cậu. Con gái theo vần của dì, cô.
Ma chay
Quan tài là một cây gỗ bổ đôi, khoét rỗng. Cách trang trí vừa mang dáng dấp một ngôi nhà dài, vừa thể hiện hình con trâu được cách điệu hóa. Người chết được chia một số tài sản sang thế giới bên kia như xà gạc, rìu, ché, váy áo chôn cùng huyệt hoặc bỏ rải rác xung quanh mộ. Sau lễ mai táng thì bỏ mả và tang chủ phải kiêng 7 ngày không được vào rừng hoặc lên rẫy.
Thờ cúng
Người Mạ tin có Thần (Yang). Họ thờ cúng nhiều Yang như Yang Hiu (Thần Nhà), Yang Koi (Thần Lúa), Yang Bơnơm (Thần Núi). Họ thường giết súc vật tế thần vào những dịp được mùa, sinh đẻ, bệnh tật, chết chóc. Lễ hiến sinh lớn nhất là lễ đâm trâu, thường được thực hiện lúc kết thúc mùa rẫy.
Học hành
Người Mạ không có chữ viết, nền văn hóa dân gian Mạ vẫn sống bằng lối sống nghìn xưa – thuộc lòng và truyền miệng.
Văn nghệ
Vốn văn học nghệ thuật dân gian khá phong phú gồm nhiều truyền thuyết, truyện cổ và những bài dân ca trữ tình gọi là tam bớt. Nhạc cụ truyền thống là bộ chiêng đồng 6 chiếc không núm. Khi hòa tấu có trống bịt da trâu đánh giáo đầu, giữ nhịp và đổ hồi trước khi kết thúc. Con trai Mạ thường thổi khèn bầu, sáo trúc, tù và bằng sừng trâu.